Sáp nhập tỉnh thành Việt Nam: Từ 63 tỉnh xuống còn bao nhiêu?

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội ngày càng cao, Việt Nam đang đứng trước bài toán tối ưu hóa bộ máy hành chính nhà nước. Một trong những giải pháp được đặt ra và thu hút sự quan tâm đặc biệt là sáp nhập tỉnh thành.

Quốc hội thống nhất sáp nhập từ 63 tỉnh thành còn 31 tỉnh thành đúng không?

Hiện nay có một số thông tin lan truyền về việc Quốc hội thống nhất sáp nhập từ 63 tỉnh thành còn 31 tỉnh. Tuy nhiên chưa có thông tin chính thức về việc Quốc hội thống nhất sáp nhập từ 63 tỉnh thành xuống còn 31 tỉnh thành.

Việc thống nhất sáp nhập từ 63 tỉnh thành xuống còn 31 tỉnh thành nếu có sẽ được thực hiện theo lộ trình và dựa trên các tiêu chí cụ thể về diện tích, dân số,… và phải chờ các quyết định chính thức từ Nhà nước.

Quốc hội thống nhất sáp nhập từ 63 tỉnh thành còn 31 tỉnh thành đúng không?

Chủ trương và lộ trình thực hiện

Chính sách sáp nhập đơn vị hành chính không phải là một ý tưởng mới mẻ, mà đã được thể hiện rõ nét qua nhiều văn kiện của Nhà nước. Mục tiêu xuyên suốt là tinh gọn bộ máy, giảm đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tiết kiệm chi phí và tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội.

Giai đoạn 2019-2021 đã chứng kiến những bước đi đầu tiên trong công cuộc tái cấu trúc hành chính, tập trung vào việc sắp xếp, sáp nhập các đơn vị hành chính cấp huyện, xã.

Bước sang giai đoạn 2023-2030, Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh chủ trương này, chỉ đạo các địa phương rà soát, xây dựng phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, xã giai đoạn 2023-2025 và định hướng đến năm 2030. Đặc biệt, việc sắp xếp cấp tỉnh cũng được đề cập đến một cách rõ ràng hơn, dù vẫn cần có lộ trình và bước đi thận trọng, từng bước một.

Vì sao sáp nhập tỉnh thành trở thành xu hướng tất yếu?

Trong thế giới ngày càng phẳng và cạnh tranh gay gắt, Việt Nam không thể đứng ngoài xu hướng chung của thế giới. Việc duy trì một bộ máy hành chính cồng kềnh, kém hiệu quả không chỉ gây lãng phí nguồn lực mà còn kìm hãm sự phát triển. Sáp nhập tỉnh thành, vì vậy, được xem là một giải pháp mang tính chiến lược, xuất phát từ những lý do và mục tiêu cốt lõi sau:

  • Tối ưu hóa nguồn lực: Sáp nhập giúp tập trung nguồn lực về con người, tài chính, đất đai, cơ sở vật chất… từ nhiều đơn vị hành chính nhỏ lẻ thành một đơn vị lớn mạnh hơn. Điều này tạo điều kiện để đầu tư mạnh mẽ hơn vào các dự án phát triển kinh tế – xã hội trọng điểm, xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại.
  • Nâng cao năng lực cạnh tranh: Các tỉnh, thành phố sau sáp nhập sẽ có quy mô kinh tế lớn hơn, thị trường rộng mở hơn, thu hút đầu tư mạnh mẽ hơn, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của địa phương và cả quốc gia trong bối cảnh hội nhập.
  • Giảm chi phí hành chính: Việc giảm số lượng đơn vị hành chính đồng nghĩa với việc giảm số lượng cơ quan, đầu mối, cán bộ, công chức, từ đó tiết kiệm đáng kể chi phí hoạt động thường xuyên của bộ máy nhà nước, dành nguồn lực cho các mục tiêu phát triển khác.
  • Quản lý hành chính hiệu quả hơn: Bộ máy hành chính tinh gọn hơn sẽ giúp cho việc điều hành, quản lý trở nên thông suốt, hiệu quả hơn, giảm thiểu tình trạng chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ giữa các đơn vị hành chính.
  • Giải quyết các vấn đề liên vùng: Sáp nhập tạo điều kiện thuận lợi hơn để giải quyết các vấn đề mang tính liên vùng, liên tỉnh như quy hoạch phát triển, giao thông kết nối, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu… một cách đồng bộ và hiệu quả.
Phương án sát nhập tỉnh thành Việt Nam năm 2025

Tiêu chí sáp nhập: Dân số và diện tích là trọng tâm

Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (sửa đổi năm 2022), các tỉnh phải đáp ứng các tiêu chí cụ thể để duy trì đơn vị hành chính cấp tỉnh:

  • Tỉnh miền núi, vùng cao: Dân số từ 900.000 người, diện tích từ 8.000 km², ít nhất 9 huyện.
  • Các tỉnh còn lại: Dân số từ 1,4 triệu người, diện tích từ 5.000 km², ít nhất 9 huyện.

Dựa trên số liệu dân số năm 2019 từ Tổng cục Thống kê và diện tích tự nhiên, nhiều tỉnh không đạt tiêu chí này. Một số ví dụ:

  • Bắc Kạn: Dân số 314.000 người, diện tích 4.860 km².
  • Hà Nam: Dân số 854.000 người, diện tích 861 km².
  • Ninh Bình: Dân số 984.000 người, diện tích 1.378 km².
  • Đắk Nông: Dân số 622.000 người, diện tích 6.509 km².

Ước tính, khoảng 10-20 tỉnh (tùy cách đánh giá) hiện không đáp ứng cả hai tiêu chí về dân số và diện tích, trở thành đối tượng tiềm năng cho sáp nhập.

Những phương án sáp nhập tỉnh thành tiềm năng

Mặc dù chủ trương sáp nhập tỉnh thành đã được xác định rõ, nhưng đến nay, vẫn chưa có phương án cụ thể nào được Chính phủ chính thức phê duyệt cho giai đoạn 2025-2030. Tuy nhiên, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và các đề xuất từ nhiều phía, có thể nhận diện một số phương án sáp nhập tiềm năng, tập trung vào các khu vực trọng điểm:

1. Khu vực Bắc Trung Bộ: Cực tăng trưởng mới

  • Phương án Hà Tĩnh – Nghệ An: Đây có lẽ là phương án được nhắc đến nhiều nhất và nhận được sự đồng thuận cao từ giới chuyên gia và dư luận. Tỉnh mới có thể tên là Nghệ Tĩnh.
    • Lý do: Hai tỉnh có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, địa lý, phong tục tập quán. Về kinh tế, Nghệ An có thế mạnh về công nghiệp, Hà Tĩnh mạnh về cảng biển, du lịch. Sáp nhập sẽ tạo ra một tỉnh lớn mạnh, bổ trợ nhau về kinh tế, phát huy tối đa tiềm năng của cả hai địa phương.
    • Tiềm năng: Hình thành một trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục lớn của khu vực Bắc Trung Bộ, có khả năng cạnh tranh và thu hút đầu tư mạnh mẽ hơn. Phát triển mạnh mẽ các ngành kinh tế biển, du lịch, công nghiệp chế biến, năng lượng…
    • Thách thức: Cần giải quyết hài hòa vấn đề trung tâm hành chính, phân bổ nguồn lực đầu tư hợp lý, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng, miền trong tỉnh mới.
  • Phương án Quảng Bình – Quảng Trị – Thừa Thiên Huế: Một đề xuất khác, mang tính đột phá hơn, là sáp nhập 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
    • Lý do: Ba tỉnh này nằm trên Hành lang kinh tế Đông – Tây, có tiềm năng lớn về du lịch, kinh tế biển, cửa khẩu. Sáp nhập sẽ tạo ra một tỉnh có quy mô lớn, đủ sức mạnh để khai thác hiệu quả các tiềm năng này.
    • Tiềm năng: Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng các khu kinh tế ven biển hiện đại, phát huy vai trò cửa ngõ giao thương quốc tế trên Hành lang kinh tế Đông – Tây.
    • Thách thức: Địa bàn rộng lớn, địa hình phức tạp, cần có quy hoạch phát triển tổng thể, đồng bộ, đảm bảo kết nối hạ tầng và quản lý hành chính hiệu quả.

Trước đây 3 tỉnh này đã có lần sát nhập và mang tên Bình Trị Thiên.

2. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long: Phát triển bền vững

  • Phương án sáp nhập các tỉnh nhỏ ven biển: Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều tỉnh có diện tích nhỏ, dân số ít, kinh tế chưa phát triển mạnh, dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu.
    • Lý do: Sáp nhập các tỉnh này có thể tạo ra các tỉnh có quy mô lớn hơn, đủ sức đầu tư vào hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái, kinh tế biển.
    • Tiềm năng: Nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển nông nghiệp bền vững, du lịch sinh thái độc đáo, khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế biển.
    • Thách thức: Đồng bằng sông Cửu Long có địa hình sông ngòi chằng chịt, giao thông còn hạn chế, cần có quy hoạch phát triển hạ tầng giao thông, thủy lợi đồng bộ, đảm bảo kết nối và phát triển hài hòa giữa các vùng.

3. Khu vực Tây Nguyên: Tinh gọn để phát triển

  • Phương án sáp nhập các tỉnh diện tích lớn, dân cư thưa thớt: Tây Nguyên có diện tích rộng lớn nhưng dân cư thưa thớt, kinh tế còn nhiều khó khăn.
    • Lý do: Sáp nhập các tỉnh có thể giúp tinh gọn bộ máy hành chính, giảm chi phí, tập trung nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng, nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái, bảo tồn văn hóa.
    • Tiềm năng: Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái, năng lượng tái tạo, khai thác tiềm năng khoáng sản, bảo tồn văn hóa đặc sắc của vùng Tây Nguyên.
    • Thách thức: Địa bàn rộng lớn, giao thông khó khăn, dân cư phân bố không đều, cần có chính sách đặc thù để phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và ổn định đời sống người dân.

4. Mở rộng các thành phố trực thuộc Trung ương

  • Phương án mở rộng Hà Nội: Sáp nhập một số tỉnh lân cận như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam… vào Hà Nội.
    • Lý do: Giải quyết tình trạng quá tải của Hà Nội, mở rộng không gian phát triển đô thị, hình thành một siêu đô thị, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn của cả nước, có tầm ảnh hưởng khu vực và quốc tế.
    • Tiềm năng: Phát triển Hà Nội trở thành một đô thị hiện đại, thông minh, trung tâm kinh tế, tài chính, công nghệ, văn hóa, giáo dục hàng đầu của khu vực và thế giới.
    • Thách thức: Quy mô đô thị quá lớn, quản lý phức tạp, cần có quy hoạch đô thị thông minh, hiện đại, giải quyết các vấn đề về giao thông, môi trường, nhà ở, an ninh trật tự…
  • Phương án mở rộng TP.HCM: Sáp nhập một số tỉnh lân cận như Bình Dương, Đồng Nai, Long An… vào TP.HCM.
    • Lý do: Tương tự Hà Nội, mở rộng TP.HCM để giải quyết các vấn đề về quá tải, hạ tầng, giao thông, dân số, tạo động lực phát triển cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
    • Tiềm năng: Phát triển TP.HCM trở thành một trung tâm kinh tế, tài chính, dịch vụ, công nghệ hàng đầu của khu vực Đông Nam Á, cửa ngõ giao thương quốc tế quan trọng.
    • Thách thức: Tương tự Hà Nội, cần giải quyết các vấn đề về quy hoạch đô thị, hạ tầng, quản lý dân cư, môi trường… đảm bảo phát triển bền vững.

Vì sao Việt Nam cần sáp nhập tỉnh thành?

Việc sáp nhập tỉnh thành không chỉ đơn thuần là phép cộng cơ học về diện tích và dân số, mà còn là một bước đi chiến lược, hướng tới những mục tiêu phát triển sâu rộng và bền vững hơn cho Việt Nam:

  • Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước: Bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực quản lý nhà nước, đảm bảo sự điều hành thông suốt, hiệu quả từ trung ương đến địa phương.
  • Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Sáp nhập tạo ra các đơn vị hành chính có quy mô lớn hơn, tiềm lực kinh tế mạnh mẽ hơn, thu hút đầu tư, tạo việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
  • Nâng cao chất lượng cuộc sống người dân: Kinh tế phát triển, nguồn lực được tập trung đầu tư vào các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần cho người dân.
  • Tăng cường sức mạnh quốc gia: Một quốc gia có bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả, kinh tế phát triển mạnh mẽ sẽ có vị thế và tiếng nói lớn hơn trên trường quốc tế, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Vượt qua thách thức, hiện thực hóa mục tiêu

Mặc dù sáp nhập tỉnh thành mang lại nhiều lợi ích tiềm năng, nhưng đây không phải là một con đường trải đầy hoa hồng. Việt Nam sẽ phải đối mặt với không ít thách thức và khó khăn trong quá trình thực hiện:

  • Vượt qua rào cản tâm lý và văn hóa: Sáp nhập tỉnh thành liên quan đến sự thay đổi về địa giới hành chính, tên gọi, truyền thống văn hóa, có thể gây ra những xáo trộn tâm lý và sự phản ứng từ một bộ phận người dân. Cần có công tác tuyên truyền, vận động, giải thích thấu đáo để tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
  • Giải quyết bài toán nhân sự: Sắp xếp lại bộ máy hành chính, nhân sự sau sáp nhập là một bài toán khó, đòi hỏi sự công tâm, minh bạch, đảm bảo quyền lợi chính đáng của cán bộ, công chức, viên chức, đồng thời lựa chọn được những người có năng lực, phẩm chất để đảm nhận các vị trí mới.
  • Đảm bảo sự đồng bộ về hạ tầng: Các tỉnh, thành phố sau sáp nhập cần có sự đầu tư đồng bộ về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, thông tin liên lạc, trụ sở làm việc… để đảm bảo hoạt động hiệu quả và phục vụ tốt nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
  • Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp: Các đơn vị hành chính mới sau sáp nhập có quy mô lớn hơn, phức tạp hơn, đòi hỏi phải có cơ chế quản lý hành chính phù hợp, hiệu quả, đảm bảo sự thống nhất, thông suốt và minh bạch.

Việt Nam qua các lần thành lập, sáp nhập tỉnh

Việt Nam đã trải qua nhiều đợt sắp xếp, chia tách và sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh theo từng giai đoạn lịch sử.

  • Trước năm 1945 (thời Pháp thuộc): Dưới thời nhà Nguyễn, cả nước có 31 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên (tương đương cấp tỉnh). Sau khi Pháp thiết lập bộ máy, Việt Nam được chia thành ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Tổng số tỉnh thay đổi theo từng giai đoạn.
  • Giai đoạn 1945 – 1954: Năm 1945, sau khi giành độc lập, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa duy trì hệ thống tỉnh cũ nhưng có điều chỉnh. Đến năm 1954, cả nước có 70 tỉnh, thành phố (bao gồm các tỉnh ở Bắc Bộ, Trung Bộ và một số tỉnh ở Nam Bộ).
  • Giai đoạn 1954 – 1975: tại miền Bắc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành một số điều chỉnh. Giai đoạn này có khoảng 30 – 32 tỉnh/thành phố. Còn miền Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng thực hiện các thay đổi hành chính. Đến năm 1975, miền Nam có 44 tỉnh và 1 thủ đô (Sài Gòn).
  • Giai đoạn 1975 đến nay: Việt Nam có 72 đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong đó miền Bắc có 25 đơn vị và miền Nam có 47 đơn vị. Trải qua nhiều lần điều chỉnh, đến năm 2008 đến nay, Việt Nam duy trì 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm 57 tỉnh và 6 thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng và TP.Huế (được chuyển từ tỉnh Thừa Thiên Huế thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2024).

Danh sách 38 tỉnh, thành phố trong lần sắp xếp năm 1976

Năm 1976, 38 tỉnh, thành phố gồm 35 tỉnh và 3 thành phố trực thuộc Trung ương.

  • Bắc Bộ có 13 tỉnh và 2 thành phố:
    • Các tỉnh: Bắc Thái, Cao Lạng, Hà Nam Ninh, Hà Bắc, Hà Sơn Bình, Hà Tuyên, Hải Hưng, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Quảng Ninh, Sơn La, Thái Bình, Vĩnh Phú.
    • 2 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng.
  • Trung Bộ có 10 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên, Quảng Nam – Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải, Gia Lai – Kon Tum, Đắk Lắk, Lâm Đồng.
  • Nam Bộ có 12 tỉnh và 1 thành phố:
    • Các tỉnh: Sông Bé, Tây Ninh, Đồng Nai, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang, Kiên Giang, Bến Tre, Cửu Long, Minh Hải.
    • Thành phố Hồ Chí Minh.

“Việt Nam chỉ nên duy trì 45-50 tỉnh, thành”

Trao đổi với báo Dân trí, Đại biểu Quốc hội Bùi Hoài Sơn (Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội) cho rằng những tỉnh có quy mô dân số quá nhỏ hoặc diện tích quá hạn chế cần được ưu tiên xem xét sáp nhập trước tiên. Việt Nam chỉ nên duy trì 45-50 tỉnh, thành phố.

Cùng quan điểm, Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) nói vấn đề sáp nhập các tỉnh có dân số ít, diện tích nhỏ đã được ông đưa ra Quốc hội cách đây 5-6 năm. Với dân số hơn 100 triệu người mà có tới 63 tỉnh, thành phố, theo ông Hòa, là quá nhiều. Ông Hòa nói và cho rằng có thể chỉ duy trì khoảng 40 đơn vị hành chính cấp tỉnh là phù hợp.

Kết luận: Hướng tới tương lai hành chính Việt Nam tinh gọn

Sáp nhập tỉnh thành là một quyết sách mang tính lịch sử, có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới. Đây là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự quyết tâm cao, tầm nhìn xa, bước đi thận trọng và sự đồng lòng của toàn xã hội.

Để hiện thực hóa thành công chủ trương này, Việt Nam cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, từ việc xây dựng phương án sáp nhập khoa học, khả thi, đến việc giải quyết hài hòa các vấn đề về nhân sự, hạ tầng, văn hóa, xã hội….

Leave a Comment