5 câu chuyện về tinh thần chí công vô tư

Tinh thần chí công vô tư là gì? Dưới đây là những câu chuyện nổi tiếng về tinh thần chí công vô tư trong lịch sử được TINHN tổng hợp.

Tinh thần chí công vô tư là gì?

Theo từ điển Hán Việt, “chí” là rất, “công” là chung, “vô” là không, “tư” là riêng. Vì vậy, cụm từ này có nghĩa là dành hết lòng vào việc công, việc chung, không nghĩ đến tư lợi, lợi ích riêng mình.

Một thành ngữ tương đương khác từ văn hóa Trung Hoa là “đại công vô tư”. Câu nói “đại công vô tư” bắt nguồn từ Đức Khổng Tử và về sau trở thành thành ngữ. Nó được dùng để mô tả một người hay một hành động hoàn toàn công bằng, không thiên vị.

Tinh thần chí công vô tư của Trần Thủ Độ

Trung Vũ Đại Vương – Trần Thủ Độ (1194 – 1264) là quyền thần số một của Việt Nam thời nhà Trần. Sinh thời ông tàn nhẫn quyết đoán và mưu lược nên để lại nhiều ý kiến khen chê khác nhau từ xưa đến nay.

Nhưng những câu chuyện được ghi lại trong lịch sử lại cho thấy một khía cạnh khác về Trần Thủ Độ, một tấm gương chí công vô tư hiếm có nghìn đời.

Đại Việt Sử Ký toàn thư chép như sau :

Quyền át cả vua

“Trần Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài trí hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ vào mưu sức của ông cả, vì thế, ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua. Bấy giờ có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông, khóc mà nói rằng: “Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ thì quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?”, Thái Tông lập tức ra lệnh cho xe ngựa đến dinh Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc ấy đem theo và kể hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ biết. Thủ Độ trả lời rằng: “Quả có đúng như những lời hắn nói thật”. Xong, đem tiền lụa mà thưởng cho”.

Trần Thủ Độ nghiêm giữ quốc pháp

“Linh Từ Quốc Mẫu có lần ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại, về dinh khóc kể với Trần Thủ Độ rằng: “Mụ này làm vợ ông mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế ư ?”. 

Trần Thủ Độ tức giận liền sai người đi bắt người quân hiệu kia. Người quân hiệu ấy nghĩ rằng mình chắc là phải chết. Đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt Linh Từ, người quân hiệu ấy cứ theo sự thực mà trả lời. Thủ Độ nói: “Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì được nữa”. Nói xong, đem vàng lụa thưởng cho.” 

Không vì tình riêng mà bố trí quan lại

“Có lần Trần Thủ Độ đi duyệt định hộ khẩu, bà Quốc Mẫu xin riêng cho một người được làm chức Câu đương, Thủ Độ gật đầu rồi ghi rõ họ tên quê quán người đó. Khi xét duyệt đến xã ấy, liền hỏi tên nọ ở đâu, người đó mừng rỡ chạy đến. Thủ Độ bảo hắn: “Ngươi vì có Công chúa xin cho được làm Câu đương, không thể ví như những Câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác!” Người đó van xin mãi mới tha cho. Từ đó không ai dám đến thăm Thủ Độ vì việc riêng nữa”.

Công tư phân minh, rạch ròi giữa nước và nhà

“Thái Tông có lần muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm Tể tướng, Thủ Độ tâu: ‘An Quốc là anh thần, nếu cho là giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, còn nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử An Quốc. Nếu anh em đều làm Tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra sao?’. Vua bèn thôi. Trần Thủ Độ tuy làm Tể tướng nhưng mọi việc đều để ý chu tất, vì thế đã giúp nên vương nghiệp và giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất”.

Quyền lực là một thứ gây nghiện và là con dao hai lưỡi, nó có thể đem lại thành công nhưng cũng có thể đẩy người ta xuống vực. Khoảng cách giữa trung thần và loạn thần cũng chỉ cách nhau có một đường tơ. Muốn giữ vững thành công lâu dài thì phải khống chế được dục vọng của cá nhân. Chỉ có giới hạn được nó thì mới không vượt qua đường tơ ngăn cách vinh nhục kia. 

Vậy nên từ cổ chí kim, chỉ có những bậc đại trí đại huệ mới có thể nghiêm giới bản thân, trở thành những vĩ nhân danh truyền thiên cổ. Trần Thủ Độ là một tấm gương như thế. Ông không những đã hoàn thành xuất sắc vai trò người đắp nền cho nhà Trần sau này mà còn rất sáng suốt khi ở đỉnh cao quyền lực, ngay cả tình cảm vợ chồng và thân tộc cũng không mảy may làm ảnh hưởng sự anh minh của mình. Dẫu rằng nhiều lời khen chê cách cai trị và hành xử của ông, nhưng xét trên phương diện công trạng đối với quốc gia và thi hành chính trị gương mẫu thì người viết cho rằng Trần Thủ Độ có thể coi là một bậc chính nhân quân tử cầm quyền vậy. 

Tinh thần chí công vô tư của Lê Hoàn

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Lê Đại Hành có tên húy là Lê Hoàn. Ông là vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê, trị vì từ năm 980 đến 1005. Ông là vị hoàng đế nằm trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất của Việt Nam.

Lê Đại Hành là một vị vua mà “sứ thần Trung Quốc phải tôn sùng, tù trưởng Sơn động hết chuyện làm phản”. Ông đã xây dựng kinh thành Hoa Lư phồn vinh hơn cả nhà Đinh. Ông còn lưu ý đến sức dân, quan tâm đến chính sự, chú trọng nghề làm ruộng, nghiêm ngặt việc biên phòng, quy định pháp lệnh, tuyển lựa quân ngũ… có thể nói là hết sức siêng năng, hết lòng lo lắng. Ông là một vị vua có tài, dẹp nội loạn, khéo bang giao, giữ thể diện cho quốc gia không bị nước lớn chèn ép.

Lê Đại Hành làm vua tỏ rõ là một người chí công vô tư, vì việc chung chứ không vì thù oán riêng. Ông giết Phạm Hạp vì tội làm loạn nhưng lại trọng dụng em Hạp là Phạm Cự Lạng, dùng làm tướng, thăng tới chức Thái úy chỉ huy quân đội. Con của Nguyễn Bặc – một người cùng bị giết với Phạm Hạp – Nguyễn Đê cũng được cất nhắc làm quan võ nhà Tiền Lê. Lê Đại Hành vô tư tới mức không phòng ngừa rằng sau này chính Nguyễn Đê là người tham gia đưa Lý Công Uẩn lên ngôi thay nhà Tiền Lê.

Ngoài ra, các đại thần từng là bạn thân của tiên hoàng như Trịnh Tú, Lưu Cơ – hai người nằm trong bộ tứ “Điền, Bặc, Tú, Cơ” theo vua Đinh từ ngày hàn vi – cũng được Đại Hành trọng dụng, không vì lý do “cùng bè đảng” với Nguyễn Bặc và Đinh Điền mà kiếm cớ trừ khử hay sa thải.

Điều đáng khâm phục ở Lê Hoàn là chính sách dùng người khoan dung, trọng tài năng không vì tình riêng khiến ông quy tụ được nhân tâm, củng cố sức mạnh trong nước, vượt qua được khó khăn trong thời buổi đất nước rối ren, lòng người dao động khi từ phía Nam và Bắc đều bị uy hiếp.

Lê Hoàn là người mở đầu và xác lập những nguyên tắc cơ bản của nền ngoại giao Đại Việt. Nhà Tống là triều đại phong kiến hùng mạnh nhất châu Á đương thời đã phải từng bước thừa nhận sức mạnh, thế lực của quốc gia độc lập Đại Cồ Việt, đã phong cho Lê Hoàn các tước vị cao như Giao Chỉ quận vương, Nam Bình vương. Sứ thần Tống còn làm thơ tôn Lê Hoàn tài ba không khác gì vua Tống.

Tinh thần chí công vô tư của Tô Hiến Thành

Tô Hiến Thành (1102-1179) sinh ra ở làng Cẩm Đới (nay là làng Chánh Lộc), xã Hà Giang, huyện Hà Trung. Năm 18 tuổi ông đỗ đầu bảng khoa trạng nguyên thời Vua Lý Nhân tông, và làm quan đến chức tham tri chính sự thời Lý Thần tông.

Sự trung quân là lý do để Vua Lý Anh tông gia phong tước vương cho Tô Hiến Thành và đưa vào chức Nhập nội kiểm hiệu Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự, tức là chức Tể tướng, quan đứng đầu triều. Ở trên cương vị này, tài năng và đức độ của Tô Hiến Thành lại càng tỏa sáng.

Tháng 4-1175, Vua Lý Anh tông trở bệnh. Tô Hiến Thành được tin cậy giao giúp Thái tử Long Cán (lúc này mới ba tuổi) tạm quyền coi giữ chính sự. Tháng 7-1175, nhà vua qua đời, để lại di chiếu cho Tô Hiến Thành làm Phụ chính. Chiêu Linh Thái hậu, chính thất của Vua Lý Anh tông, tìm đủ mọi cách để con trai là Lý Long Sưởng được lên ngôi, kể cả việc đem một mâm vàng tới đưa cho vợ Tô Hiến Thành là Lữ thị để thuyết phục ông không theo di chiếu. Ông khảng khái nói: “Làm điều bất nghĩa mà được giàu sang, có lẽ nào hạng trung thần nghĩa sĩ lại vui lòng mà làm được, huống chi lời tiên đế hãy còn văng vẳng bên tai!”… Chính nhờ thái độ nhất quán và trung nghĩa của Tể tướng Tô Hiến Thành mà Thái tử Long Cán mới lên ngôi lấy hiệu là Lý Cao tông…

Tấm lòng trung hiếu của Tô Hiến Thành tới phút lâm chung vẫn không thay đổi. “Đại Việt sử ký toàn thư” có chép chuyện: “Khi Tô Hiến Thành nằm bệnh, Tham tri chính sự Vũ Tán Đường ngày đêm hầu bên cạnh. Gián nghị Đại phu Trần Trung Tá vì bận việc không lúc nào rỗi để tới thăm hỏi. Đến khi ông bệnh nặng, Thái hậu đến thăm, hỏi rằng, nếu có mệnh hệ nào thì ai là người có thể thay ông?”. Hiến Thành trả lời: “Trung Tá có thể thay được”. Thái hậu nói: “Tán Đường hàng ngày hầu thuốc thang, sao không thấy ông nhắc đến?”. Hiến Thành trả lời: “Vì Thái hậu hỏi người nào có thể thay thần nên thần nói đến Trung Tá, còn như hỏi người hầu dưỡng thì phi Tán Đường còn ai nữa?”.

Hậu thế ngày nay khi tìm hiểu cuộc đời và tấm lòng Thái úy Tô Hiến Thành đã có thể lý giải tại sao ông lại được các nhà sử học từ Ngô Sĩ Liên, Phan Huy Chú, Ngô Thì Sĩ… đánh giá rất cao trong sử sách. Thậm chí, khi Tô Hiến Thành mất, Vua Lý Cao tông đã giảm ăn 3 ngày, nghỉ thiết triều 6 ngày để tỏ lòng thương tiếc.

Tinh thần chí công vô tư của Bao Công

Một câu chuyện nổi bật về tinh thần chí công vô tư là câu chuyện của Bao Công (Bao Chửng), một vị quan nổi tiếng của Trung Quốc trong thời Bắc Tống. Bao Công được biết đến với tinh thần chí công vô tư, liêm khiết, và sự cương quyết trong việc thực thi công lý.

Bối cảnh lịch sử

Bao Chửng sinh năm 999 và mất năm 1062, trong thời kỳ nhà Tống, một triều đại nổi tiếng với nhiều vị quan liêm khiết và trí thức lỗi lạc. Bao Công làm quan dưới triều Tống Nhân Tông và giữ nhiều chức vụ quan trọng, nhưng ông nổi tiếng nhất khi giữ chức vụ Phủ doãn phủ Khai Phong, nơi ông đảm nhiệm vai trò xét xử và thi hành công lý.

Chí công vô tư của Bao Công

Bao Công nổi tiếng vì tinh thần chí công vô tư trong việc xét xử các vụ án, không thiên vị bất kỳ ai, dù đó là người quyền quý hay dân thường. Ông luôn đặt sự thật và công lý lên hàng đầu, không vì áp lực hay quyền lợi cá nhân mà thay đổi phán quyết. Trong lịch sử và văn học, Bao Công được miêu tả là người công minh, chính trực, và không bao giờ dung túng cho những hành vi sai trái, dù kẻ phạm tội là ai.

Hành động cụ thể

Có rất nhiều câu chuyện về những vụ án do Bao Công xử lý, nhưng một trong những vụ án nổi bật là vụ án xử cháu của Hoàng hậu. Khi cháu của Hoàng hậu bị tố cáo tội giết người để cướp tài sản, Bao Công không e ngại sự can thiệp từ hoàng gia. Ông đã điều tra vụ án một cách kỹ lưỡng, thu thập chứng cứ và đưa ra phán quyết xử tử kẻ phạm tội, bất chấp áp lực từ Hoàng hậu và các quan lại khác. Phán quyết của ông đã gây chấn động triều đình, nhưng cũng làm tăng thêm uy tín và danh tiếng của Bao Công như một vị quan chí công vô tư.

Tinh thần chí công vô tư của Bao Công không chỉ giúp ông giải quyết nhiều vụ án phức tạp và nhạy cảm mà còn góp phần duy trì trật tự và công lý trong xã hội thời bấy giờ. Ông được nhân dân yêu mến và kính trọng, trở thành biểu tượng của công lý và liêm chính trong văn hóa Trung Quốc.

(Tổng hợp)

Leave a Comment